| |
Đây là
bản công-hàm bán nước của CSVN
Thủ Tướng Phủ
Nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà
Thưa Đồng
chí Tổng lư,
Chúng tôi xin trân trọng báo
tin để Đồng chí Tổng lư rơ:
Chính phủ nước
Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà
ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày
4
tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà
Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của
Trung-quốc.
Chính phủ nước
Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà
tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các
cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn
trọng hải phận 12 hải lư của Trung-quốc, trong
mọi quan hệ với nước Cộng ḥa Nhân dân Trung
hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lư
lời chào rất trân trọng./.
Kính gửi: Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958.
Đồng chí Chu An Lai
(Ấn kư)
Tổng lư Quốc vụ viện PHẠM VĂN ĐỒNG
Nước Cộng hoà Nhân dân Trung-hoa Thủ tướng
Chính Phủ
tại BẮC
KINH Nước Việt-nam Dân chủ Cộng
Ḥa
|
|
Đây
là nguyên-ngữ bản Tuyên bố ngày 4
tháng 9 năm 1958 của Chính phủ Trung-Cộng quyết định về hải phận của
Trung-quốc.
Trang
Luật-học
http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm
Dịch
ra Anh-ngữ
DECLARATION OF THE GOVERNMENT OF THE PEOPLE'S
REPUBLIC OF CHINA ON THE TERRITORIAL SEA
(Approved by the 100th Session of the Standing
Committee of the National People's Congress on 4th
September, 1958)
The
People's Republic of China hereby announces:
(1) This
width of the territorial sea of the People's
Republic of China is twelve national miles. This
provision applies to all Territories of the People's
Republic of China, including the mainland China and
offshore islands, Taiwan (separated from the
mainland and offshore islands by high seas) and its
surrounding islands, the Penghu Archipelago, the
Dongsha Islands, the Xisha islands, the Zhongsha
Islands, the Nansha Islands and other islands
belonging to China.
(2) The
straight lines linking each basic point at the
mainland's coasts and offshore outlying islands are
regarded as base lines of the territorial sea of the
mainland China and offshore islands. The waters
extending twelve nautical miles away from the base
lines are China's territorial sea. The waters inside
the base lines, including Bohai Bay and Giongzhou
Strait, are China's inland sea. The islands inside
the base lines, including Dongyin Island, Gaodeng
Island, Mazu Inland, Baiquan Island, Niaoqin Island,
Big and Small Jinmen Islands, Dadam Island, Erdan
Island and Dongding Island, are China's inland sea
islands.
(3)
Without the permit of the government of the People's
Republic of China, all foreign aircrafts and
military vessels shall not be allowed to enter
China's territorial sea and the sky above the
territorial sea.
Any
foreign vessel sailing in China's territorial sea
must comply with the relevant orders of the
government of the People's Republic of China.
(4) The
above provisions (2) and (3) also apply to Taiwan
and its surrounding islands, the Penghu Islands, the
Dongsha Islands, the Xisha Islands, the Zhongsha
Islands, the Nansha Islands and other islands
belonging to China.
Taiwan
and Penghu are still occupied with force by the USA.
This is an illegality violating the People's
Republic of China's territorial integrity and
sovereignty. Taiwan and Penghu are waiting for
recapture. The People's Republic of China has rights
to take all appropriate measures to recapture these
places in due course. It is China's internal affairs
which should not be interfered by any foreign
country.
http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm
Xisha
Islands (Tây Sa = Hoàng Sa = Paracel Islands)
Nansha
Islands (Nam Sa = Trường Sa = Spratly Islands)
|
|
Dịch
ra Việt-ngữ
Tuyên Bố của Chính
Phủ Nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc về Lănh Hải
(Được
thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực
Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958)
Cộng
Ḥa Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố:
(1)
Bề rộng lănh hải của nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung
Quốc là 12 hải lư. Điều lệ này áp dụng cho toàn lănh
thổ nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần
đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài
khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải
đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo
Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo
Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc
Trung Quốc.
(2)
Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ
biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi
được xem là các đường căn bản của lănh hải dọc theo
đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển
12 hải lư tính ra từ các đường căn bản là hải phận
của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn
bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng
nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường
căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu,
đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Đại và Tiểu Jinmen,
đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo
thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Ḥa
Nhân Dân Trung Quốc, tất cả máy bay ngoại quốc và
tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung
Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu
bè ngoại quốc nào di chuyển trong hải phận Trung
Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của
Chính Phủ Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc
(4) Điều
(2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các
đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần
đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và
các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Đài Loan
và Penghu hiện c̣n bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Đây là
hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lănh thổ
và chủ quyền của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc. Đài
Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Ḥa
Nhân Dân Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp
thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương
lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các vấn
đề nội bộ của Trung Quốc
http://www.trungtamdukien.org/article.php?id_article=1028
Chú
thích:
Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu) = Quần đảo Hoàng Sa
= Paracel Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu) = Quần đảo Trường Sa
= Spratly Islands
|
|
Vietnamese Claims to the Truong Sa
Archipelago
[Ed. Spratly Islands]
Todd C. Kelly
Todd C. Kelly
graduated from the M.A. program in Asian
Studies at the University of Hawaii at Manoa in August 1999.
On 15
June 1956, two weeks after the RVN reiterated the
Vietnamese claims to the Truong Sa Islands, the DRV
Second Foreign Minister told the PRC Charge
d'Affaires that "according to Vietnamese data, the
Xisha and Nansha Islands are historically part of
Chinese territory."[65] Two years later, the PRC
made a declaration defining its territorial waters.
This declaration delineated the extent of Chinese
territory and included the Truong Sa. In response,
the DRV Prime Minister, Pham Van Dong, sent a formal
note to PRC Premier Zhou Enlai stating that "The
Government of the Democratic Republic of Viet Nam
respects this decision."[66]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
http://www.hawaii.edu/cseas/pubs/explore/v3/todd.html
DRV = Democratic Republic of Vietnam - Viêt Nam Dân
Chủ
Cộng Ḥa (North Vietnam)
PRC =
People's Republic of China - Cộng Hoà Nhân Dân Trung
Hoa
RVN =
Republic of Vietnam - Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH)
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Ngày 15
tháng 6 năm 1956, hai tuần lễ sau khi Việt Nam Cộng
Hoà (RVN) tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên
quần đảo Trường Sa, Thứ trưởng Ngoại giao của Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV) đă nói với Ban Thường Vụ
của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) rằng “theo
những dữ kiện của Việt Nam th́ quần đảo Hoàng Sa
(Xisha) và quần đảo Trường Sa (Nansha) là một bộ
phận lịch sử của lănh thổ Trung quốc” . Hai năm sau
đó, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đă ra bản tuyên bố
xác định lănh hải của họ. Bản tuyên bố này đă vạch
ra rơ ràng cái khoảng khu vực của lănh thổ Trung
quốc có bao gồm cả Trường Sa . Để đáp lễ, Thủ tướng
Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV), Phạm Văn Đồng đă
gởi một bản công hàm đến Thủ tướng Trung quốc Chu Ân
Lai, nhấn mạnh rằng “Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà tôn trọng quyết định này
|
|
EYE ON
ASIA - February 10, 1994
Saigon - Hanoi -
Paracels Islands Dispute – 1974 By
Frank Ching
Far Eastern Economic
Review Reference: Vol. 157, No. 6, 10 Feb 1994
Vietnamese communists sell the Paracel and Spratly
islands, but now want to say no.
According to Chinese Ministry of Foreign Affairs's
"China's Indisputable Sovereignty Over the Xisha and
Nansha Islands" (Beijing Review, Feb. 18, 1980),
Hanoi has "settled" this matter with the Chinese in
the past. They basically claimed:
- In
June 1956, two years after Ho Chi Minh's government
was re-established in Hanoi, North Vietnamese Vice
Foreign Minister Ung Van Khien said to Li Zhimin,
Charge d'Affaires of the Chinese Embassy in North
Vietnam, that "according to Vietnamese data, the
Xisha (Tây Sa = Hoang Sa = Paracels) and Nansha (Nam
Sa = Truong Sa = Spratlys) islands are historically
part of Chinese territory."
-
On September 4, 1958, the Chinese Government
proclaimed the breadth of its territorial sea to be
twelve nautical miles which applied to to all
territories of the PRC, "including ... the Dongsha
Islands, the Xisha Islands, the Zhongsha Islands,
the Nansha Islands..." Ten days later, Pham Van Dong
stated in his note to Zhou Enlai that "the
Government of the Democratic Republic of Vietnam
recognizes and supports the declaration of the
Government of the People's Republic of China on
China's territorial sea made on September 4, 1958."
One
more thing to notice is that PRC threatened only the
territories Vietnamese claimed and left open claims
of other countries. It was very clear that Mr Ho Chi
Minh, through Pham Van Dong, gave PRC "a big pie"
because at that time Mr Ho Chi Minh was preparing
for invading South Vietnam. Mr Ho needed colossal
aids and closed eyes to accept all conditions of
Beijing. It was easy for him to sell "only on paper"
two archipelagoes which still belonged to South
Vietnam by then.
For
this, Vietnamese communists waited for a meeting of
ASEAN countries in Manila, used this opportunity as
a safe buoy and signed right away a paper requiring
these countries to help Vietnam to solve this
problem "fairly".
To its
part, after taking islands of communist Vietnam,
China showed amicability to Malaysia and Philippines
and said that China was ready to negotiate
resourceful areas with these two countries, brushing
VC aside. China did say that it would not accept any
foreign countries to get involved in this matter
between it and communist Vietnam.
Later,
Pham Van Dong denied his past wrongdoing in an issue
of Far Eastern Economic Review, March 16, 1979.
Basically, he said the reason he did was because it
was "wartime". Here's excerpt from this article on
p. 11 :
"According to Li (Chinese Vice-Premier Li Xiannian),
China was ready to share the gulf's water "half and
half" with the Vietnamese, but at the negotiating
table, Hanoi drew the line of Vietnamese control
close to Hainan island. Li also said that in 1956
(or 1958 ?), Vietnamese Premier Pham Van Dong
supported a Chinese statement about sovereignty over
the Spratly and Paracel islands, but since late
1975, Vietnam has been in control of part of the
Spratly group - the Paracels being under Chinese
control. In 1977, Dong reportedly said of his 1956
stance :"That was the war period and I had to say
that".
Because of eagerness to create disastrous war for
both areas North and South, and to contribute to
international communism, Mr Ho Chi Minh did promise,
without dignity, a "future" land for Chinese to
grab, not knowing for sure that whether or not the
South Vietnam would be swallowed.
As Dong said, "That was the war period and I had to
say that". Who created the Vietnam War and ready to
do all it could to get South Vietnam even to sell
land ? Selling land during the war time and when it
was over Pham Van Dong denied it by just laying
falsely the blame on the war.
. . .
. .
Also in
Far East Economic Review March 16, 1979, p. 11.
In 9/1958, when China, in its declaration extending
the breadth of Chinese territorial waters to 12
nautical miles, specified that the decision applied
to all Chinese territories, including the Paracels
and the Spratlies, Hanoi again went on record to
recognize China'sovereignty over the 2
archipelagoes. PVD stated in a note to Chinese
leader Zhou Enlai on 14/9/1958 :"The Government of
the Democratic Republic of VN recognizes and
supports the declaration of the Government of the
People's Republic of China on its decision
concerning China territorial sea made on 4/9/1958
(see Beijing
Review 19/6/1958, p.21 -- Beijing Review--
25/8/1979, p.25
-- The existence of such a statement and its
contents were acknowledged in VN in BBC/FE, no.
6189, 9/8/1979, p. 1)
Why ?
Carlyle
A. Thayer, author of "Vietnam's Strategic
Readjustment," in Stuart Harris and Gary Klintworth,
eds., China as a Great Power in the Asia Pacific
(Melbourne: Longman Cheshire Pty Ltd., forthcoming
1994):
In
pursuing its national interests, Vietnam has
undertaken actions which appear highly provocative
from China's point of view. For example, during
Vietnam's long struggle for independence it made no
public protests over Chinese claims to territory in
the South China Sea and indeed supported them. Yet
after unification Vietnam reversed its stance. In
1975 Vietnam occupied a number of islands in the
Spratly archipelago and subsequently pressed
territorial claims to the entire South China Sea.
As
Foreign Minister Nguyen Manh Cam has admitted:
"Our leaders' previous declaration on the Hoang Sa
(Paracel) and Truong Sa (Spratly) archipelagoes was
made in the following context: At that time, under
the 1954 Geneva agreement on Indochina, the
territories from the 17th parallel southward
including the two archipelagoes were under the
control of the South Vietnam administration.
Moreover, Vietnam then had to concentrate all its
force on the highest goal of resisting the US
aggressive war to defend national independence. It
had to gain support of friends all over the world.
Meanwhile, Sino-Vietnamese relations were very close
and the two countries trusted each other. China was
according to Vietnam a very great support and
valuable assistance. In that context and stemming
from the above-said urgent requirement, our leaders'
declaration [supporting China's claims to
sovereignty over the Paracel and Spratly islands]
was necessary because it directly served the fight
for the defence of national independence and the
freedom of the motherland.
More specifically, it aimed at meeting the then
immediate need to prevent the US imperialists from
using these islands to attack us. It has nothing to
do with the historical and legal foundations of
Vietnam's sovereignty over the,Truong Sa and Hoang
Sa archipelagoes (remarks to a press conference in
Hanoi on 2 December 1992 carried by Vietnam News
Agency, 3 December 1992)."
These
statements show that all what Chinese have alledged
above are true. What happen today related to these 2
islands are merely consequences of the wicked
settlement of these 2 communist brothers in the
past. No one in the world community want to step in
to settle the dispute between Communist Vietnam and
PRC. The reason is very clear : diplomatic note and
recognition by Vietnamese Communists can't be erased
by a small country like VN who has wanted to play a
trick cheating China. Moreover, Vietnamese
Communists can't stay away from China while they
have to follow Chinese "doi moi" to go forward to
socialism.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
http://www.feer.com/articles/archive/1994/9402_10/P034.html
http://members.tripod.com/paracels74/observersseat.htm |
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Cộng Sản Việt Nam bán Quần Đảo HS và TS, nhưng bây
giờ muốn từ chối.
Theo tài liệu "Chủ quyền tuyệt đối của Trung Quốc
trên Quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa " của Bộ
Ngoại giao Trung Quốc (Beijing Review, Feb. 18,
1980), Hà Nội đă "dàn xếp" vấn đề này trong quá khứ.
Đại khái họ đă bảo rằng:
- Hồi
tháng 6 năm 1956, hai năm sau ngày chính phủ của Hồ
Chí Minh đă tái lập tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại
giao Bắc Việt Ung Văn Khiêm đă nói với Li Zhimin,
Thường vụ viên của Toà Đại Sứ Trung quốc tại Bắc
Việt, rằng "theo những dữ kiện của Việt nam, hai
quần đảo Hoàng sa và Trường sa là môt bô phận lịch
sử của lănh thổ Trung quốc".
- Ngày 4
tháng 9 năm 1958, Chính phủ Trung quốc đă tuyên bố
bề rộng của lănh hải Trung quốc là mười hai hải lư,
được áp dụng cho tất cả các lănh thổ của nước Cộng
Hoà Nhân Dân Trung Hoa, "bao gồm ... Quần Đảo Đông
Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam
Sa ...". Mười ngày sau đó, Phạm Văn Đồng đă ghi rơ
trong bản công hàm gởi cho Chu An Lai, rằng "Chính
phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán
thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính
phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về vấn đề lănh
hải.
Thêm một
điều cần ghi nhận là Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa
(PRC) đă chỉ đe dọa những lănh thổ mà Việt Nam đă
tuyên bố là của ḿnh, và để yên cho các nước khác.
Rơ ràng là ông Hồ Chí Minh qua Phạm Văn Đồng, đă
tặng cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa "một cái bánh
bao lớn" bởi v́ lúc đó ông Hồ Chí Minh đang chuẩn bị
cho công cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam. Ông Hồ cần
sự viện trợ khổng lồ và đă nhắm mắt để nhận tất cả
những điều kiện của Bắc Kinh. Đối với ông ta, việc
bán "trên giấy tờ" hai quần đảo lúc đó vẫn thuộc về
Nam Việt Nam là một điều dễ dàng.
V́ sự
việc này mà Cộng sản Việt Nam đă chờ một buổi họp
của các quốc gia khối ASEAN tại Manila, để dùng cơ
hội này như một cái phao an toàn và kư ngay một văn
kiện đ̣i hỏi những quốc gia này giúp Việt Nam giải
quyết vấn đề "một cách đồng đều"
Về phía
Trung Quốc, sau khi đă lấy những đảo của Cộng sản
Việt Nam, họ đă tỏ thái độ ôn ḥa đối với Mă Lai Á
và Phi Luật Tân, và bảo rằng Trung Quốc sẵn sàng
thương lượng các khu vực tài nguyên với các quốc gia
này, và gạt VC qua một bên. Trung Quốc đă nói họ sẽ
không tán thành bất cứ quốc gia nào can thiệp vào
vấn đề giữa họ và Cộng sản Việt Nam.
Sau đó,
Phạm Văn Đồng đă chối bỏ việc làm sai lầm của ông ta
trong quá khứ, trong một ấn bản của Tạp chí Kinh tế
Viễn Đông ngày 16/3/1979. Đại khái, ông ấy nói lư do
mà ông ấy đă làm bởi v́ lúc đó là "thời kỳ chiến
tranh". Đây là một đoạn văn trích từ bài báo này ở
trang số 11:
Theo ông Li
(Phó Thủ tướng Trung quốc Li Xiannian), Trung quốc
đă sẵn sàng chia chác vùng vịnh "mỗi bên một nửa"
với Việt Nam, nhưng trên bàn thương lượng, Hà Nội đă
vẽ đường kiểm soát của Việt Nam đến gần Đảo Hải Nam.
Ông Li cũng đă nói rằng vào năm 1956 (hay 1958 ?),
Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng đă ủng hộ một bản
tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền của họ trên
Quần Đảo Trường Sa Và Hoàng Sa, nhưng từ cuối năm
1975, Việt Nam đă kiểm soát một phần của nhóm đảo
Trường Sa - nhóm đảo Hoàng Sa th́ đă bị kiểm soát
bởi Trung Quốc. Năm 1977, theo lời tường thuật th́
ông Đồng đă biện hộ cho lập trường của ông ấy năm
1956: "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đă phải
nói như vậy".
Do sự hồ hởi phấn khởi muốn tạo ra một cuộc chiến
thê thảm cho cả hai miền Bắc và Nam, và góp phần vào
phong trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đă hứa,
mà không có sự tự trọng, một phần đất "tương lai" để
cho Trung Quốc lấy, mà không biết chắc chắn là có
thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam.
Như ông Đồng đă nói, "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh
và tôi đă phải nói như vậy". Vậy th́ ai đă tạo ra
cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có
thể làm được để chiếm miền Nam Việt Nam, ngay cả
việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc
chiến đă chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó
bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh
...........
Cũng
trong Tạp chí Kinh tế Viễn Đông số tháng 3 năm 1979,
trang 11.
Hồi tháng 9 năm 1958, khi Trung Quốc, trong bản
tuyên bố của họ về việc gia tăng bề rộng của lănh
hải của họ đến 12 hải lư, đă xác định rằng quyết
định đó áp dụng cho tất cả các lănh thổ của Trung
Quốc, bao gồm cả Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một
lần nữa Hà Nội đă lên tiếng nh́n nhận chủ quyền của
Trung Quốc trên 2 quần đảo đó. Ông Phạm Văn Đồng đă
ghi nhận trong bản công hàm gởi cho lănh tụ Trung
Quốc Chu An Lai ngày 14/9/1958: "Chính phủ nước
Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản
tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ
nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải
phận của Trung-quốc" (xem Beijing Review 19/6/1958,
trang 21 -- Beijing Review 25/8/1979, trang 25 -- Sự
tồn tại của bản công hàm đó và tất cả nội dung đă
được xác nhận tại Việt Nam trong BBC/FE, số 6189,
ngày 9/8/1979, trang số 1.)
Tại sao
?
Theo
ông Carlyle A Thayer, tác giả bài "Sự tái điều chỉnh
chiến lược của Việt Nam" trong bộ tài liệu "Trung
Quốc như một Sức mạnh Vĩ đại trong vùng Á châu Thái
B́nh Dương" của Stuart Harris và Gary Klintworth
(Melbourne: Longman Cheshire Pty Ltd., forthcoming
1994): Việt Nam, trong việc theo đuổi quyền lợi quốc
gia, đă thực hiện nhiều hành động mà theo quan điểm
của Trung Quốc th́ có vẻ khiêu khích cao độ. Thí dụ
như, trong công cuộc đấu tranh trường kỳ dành độc
lập, Việt Nam đă không biểu lộ sự chống đối công
khai nào khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền của họ
trên biển Nam Trung Hoa và đúng ra đă tán thành họ.
Nhưng sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đă đổi
ngược lập trường. Năm 1975, Việt Nam đă chiếm đóng
một số hải đảo trong Quần đảo Trường Sa và sau đó đă
tiến hành việc tuyên bố chủ quyền lănh thổ trên toàn
bộ biển Nam Trung Hoa.
Như Thứ
trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đă thú nhận:
"Các
nhà lănh đạo của chúng tôi đă có tuyên bố lúc trước
về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc
đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các
lănh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm
soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đă
phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục
tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hăn
của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam
đă phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế
giới. Đồng thời, t́nh hữu nghị Trung-Việt rất thân
cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Đối với Việt
Nam, Trung Quốc đă là một sự ủng hộ rất vĩ đại và
trợ giúp vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ
những đ̣i hỏi nêu trên, tuyên bố của các nhà lănh
đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc
tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa] là cần thiết v́ nó trực tiếp phục vụ cho
sự đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc .
Đặc biệt thêm nữa là cái tuyên bố đó đă nhắm vào sự
đ̣i hỏi cần thiết lúc bấy giờ để ngăn ngừa bọn tư
bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng tôi.
Nó không có dính dáng ǵ đến nền tảng lịch sử và
pháp lư trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo
Hoàng Sa Và Trường Sa (tuyên bố trong một buổi họp
báo tại Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan tải bởi
Thông Tấn Xă Việt Nam ngày 3/12/1992)"
Những ghi nhận này cho thấy rằng tất cả những điều
mà Trung Quốc đă tố cáo phía trên là sự thật. Những
ǵ xảy ra ngày nay mà có liên hệ đến 2 quần đảo chỉ
là những hậu quả của sự dàn xếp mờ ám của hai người
cộng sản anh em trong qúa khứ. Không một ai trong
cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất
đồng giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lư do
rất
rơ ràng: cái công hàm ngoại giao và sự nh́n nhận của
Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ được bởi một
nước nhỏ như Việt Nam, kẻ đă muốn chơi đểu để lừa
dối Trung Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể
nào tránh được Trung Quốc trong khi họ phải theo
"đổi mới" của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa xă
hội.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Nguyên
bản tiếng Anh:
Saigon -
Hanoi - Paracels Islands Dispute – 1974
Frank
Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)
|
|
Chi-tiết
đọc thêm
A
History of Three Warnings
By Dr. Jose Antonio Socrates
FIRST PART: DIVIDING THE PARACELS
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
When in 1957 China protested Vietnam’s move in
Robert Island, Saigon was already in control also of
two other islands of the Crescent Group: Pattle and
Money Islands. The three South Vietnamese held
islands are on the western side of the Crescent
Group. Then in August 1958 Saigon took over Duncan
Island in the eastern sector of the Crescent, thus
facing the Amphitrite Group.
Two weeks later the PRC government declared its
sovereignty over the whole of the Paracels. They
were supported by North Vietnam.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
http://palsun.fateback.com/819/analysis.htm
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Vào năm 1957 khi Trung quốc phản đối sự chiếm đóng
của Việt Nam tại đảo Robert, th́ chính quyền Sài G̣n
đă hoàn toàn kiểm soát hai đảo khác trong nhóm
Crescent: đảo Pattle và đảo Money. Ba (3) đảo mà Nam
Việt Nam chiếm giữ nằm bên phía tây của nhóm
Crescent. Rồi đến tháng 8 năm 1958, chính quyền
Saigon chiếm giữ đảo Duncan nằm bên khu vực phía
đông của nhóm đảo Crescent, đối diện với nhóm
Amphitrite.
Hai tuần sau đó, chính phủ Cộng hoà Nhân dân
Trung Hoa tuyên bố chủ quyền của họ trên toàn bộ
Quần đảo Hoàng Sa. Họ đă được sự ủng hộ của Bắc Việt
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- |
|
STATEMENT
BY THE MINISTRY OF FOREIGN AFFAIRS
OF THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM
ON THE HOANG SA AND TRUONG SA
ARCHIPELAGOES
(AUGUST 7, 1979)
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
On July 30, 1979, China made public in Peking some
documents in an attempt to justify its claim of
sovereignty over the Paracels and Spratly
archipelagoes.
As regards this issue, the Ministry of Foreign
Affairs of the Socialist Republic of Viet Nam
declares:
. . .
. .
2. The Chinese interpretation of the September 14,
1958 note by the Prime Minister of the Democratic
Republic of Viet Nam as recognition of China's
ownership over the archipelagoes is a gross
distortion since the spirit and letter of the note
only mean the recognition of a 12 -mile limit for
Chinese territorial waters.
..
. . . .
Ha Noi, August 7, 1979.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
http://members.tripod.com/paracels74/srvnstatement.htm
Tuyên
bố của
Bộ Ngoại giao
nước Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
(Ngày 7
tháng 8 năm 1979)
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Ngày 30
tháng 7 năm 1979 tại Bắc Kinh, phía Trung quốc đă
cho công bố một vài tài liệu với ư định để minh
chứng cho việc tuyên bố chủ quyền của họ trên quần
đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Về vấn
đề này, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam tuyên bố:
..........
2.
Sự diễn giải của Trung quốc về bản công hàm ngày
14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hoà như một sự công nhận chủ quyền của phiá
Trung quốc trên các quần đảo là một sự xuyên tạc
trắng trợn khi tinh thần và ư nghĩa của bản công hàm
chỉ có ư định công nhận giới hạn 12 hải lư của lănh
hải Trung quốc.
...........
Hà Nội
ngày 7 tháng 8 năm 1979
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- |
|
International
Recognition Of China's Sovereignty over the Nansha
Islands
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
5. Viet
Nam
a) Vice
Foreign Minister Dong Van Khiem of the Democratic
Republic of Viet Nam received Mr. Li Zhimin, charge
d'affaires ad interim of the Chinese Embassy in Viet
Nam and told him that "according to Vietnamese data,
the Xisha and Nansha Islands are historically part
of Chinese territory." Mr. Le Doc, Acting Director
of the Asian Department of the Vietnamese Foreign
Ministry, who was present then, added that "judging
from history, these islands were already part of
China at the time of the Song Dynasty."
b) Nhan Dan of
Viet Nam reported in great detail on September 6,
1958 the Chinese Government's Declaration of
September 4, 1958 that the breadth of the
territorial sea of the People's Republic of China
should be 12 nautical miles and that this provision
should apply to all territories of the People's
Republic of China, including all islands on the
South China Sea. On September 14 the same year,
Premier Pham Van Dong of the Vietnamese Government
solemnly stated in his note to Premier Zhou Enlai
that Viet Nam "recognizes and supports the
Declaration of the Government of the People's
Republic of China on China's territorial sea."
c) It is
stated in the lesson The People's Republic of China
of a standard Vietnamese school textbook on
geography published in 1974 that the islands from
the Nansha and Xisha Islands to Hainan Island and
Taiwan constitute a great wall for the defense of
the mainland of China
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
http://www.fmprc.gov.cn/eng/topics/3754/t19232.htm
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
5. Việt Nam
a) Thứ
trưởng ngoại giao Đồng văn Khiêm của Việt Nam Dân
Chủ Cộng Ḥa khi tiếp ông Li Zhimin, xử lư thường vụ
Toà Đại Sứ Trung quốc tại Việt Nam đă nói rằng "theo
những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng sa và
Trường sa là môt bô phận lịch sử của lănh thổ Trung
quốc". Ông Le Doc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ
thuộc Bộ Ngoại giao Việt nam, cũng có mặt lúc đó, đă
nói thêm rằng "xét về mặt lịch sử th́ các quần đảo
này đă hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ thời nhà
Đường"
b)
Báo Nhân Dân của Việt Nam đă tường thuật rất chi
tiết trong số xuất bản ngày 6/9/1958 về Bản Tuyên Bố
ngày 4/9/1958 của Nhà nước Trung quốc, rằng kích
thước lănh hải của nước Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa
là 12 hải lư và điều này được áp dụng cho tất cả các
lănh thổ của phía Trung quốc, bao gồm tất cả các
quần đảo trên biển Nam Trung Hoa. Ngày 14/9 cùng
năm đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng của phía nhà nước
Việt Nam, trong bản công hàm gởi cho Thủ tướng Chu
An Lai, đă thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam "nh́n
nhận và ủng hộ Bản Tuyên Bố của Nhà nước Cộng Hoà
Nhân Dân Trung Hoa trong vấn đề lănh hải"
c) Bài
học về nước CHND Trung Hoa trong giáo tŕnh cơ bản
của môn địa lư của Việt Nam xuất bản năm 1974, đă
ghi nhận rằng các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa
đến đảo Hải Nam và Đài Loan h́nh thành một bức tường
pḥng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa . |
|
|